Mức độ tự do di lệch
Lưu giữ được tăng cường bằng cách hạn chế về mặt hình học số lượng hướng tháo phục hồi ra khỏi cùi răng.20 Lưu giữ tối đa đạt được khi chỉ có một hướng tháo. Một cùi chụp toàn phần với các thành trục và các rãnh dài, song song với nhau sẽ mang lại mức lưu giữ như vậy (Hình 9-6a). Ngược lại, một cùi ngắn, quá thuôn sẽ không có độ lưu giữ bởi vì phục hồi có thể được tháo ra theo vô số hướng (Hình 9-6b). Do đó, cách mài cùi tốt nhất là cách vừa tiệm cận mức lý tưởng mà lại có thể đạt được trong giới hạn của kỹ năng nha sĩ, khả năng tiếp cận và công nghệ của xưởng.
Hình 9-6 (a) Bằng cách hạn chế số lượng hướng tháo, lưu giữ sẽ được cải thiện. (b) Một cùi răng với vô số hướng tháo sẽ rất kém lưu giữ.
Hình 9-7 (a) Các thành của một rãnh lưu cắt thành trục với một góc chéo sẽ không mang lại khả năng kháng lực cần thiết. (b) Các thành của rãnh lưu phải vuông góc với các lực làm xoay phục hồi để kháng lại sự di lệch.
Hình 9-8 (a) Thành má và thành lưỡi của một hộp lưu sẽ không kháng lại được lực xoay nếu chúng tạo ra góc chéo với thành tuỷ. (b) Chúng phải cắt thành tuỷ với góc gần 90 độ.
Hạn chế mức độ tự do di lệch gây ra bởi các lực xoắn và lực xoay trong mặt phẳng ngang sẽ làm tăng khả năng kháng lực của phục hồi.
Một rãnh lưu có các thành cắt thành trục với góc chéo sẽ không mang lại khả năng kháng lực cần thiết (Hình 9-7a). Các rãnh lưu hình chữ V chỉ đem đến khoảng một nửa khả năng kháng lại di lệch về phía lưỡi so với các rãnh lưu có một thành lưỡi rõ ràng.21 Các lực gây ra chuyển động xoay phục hồi có thể tạo ra sự biến dạng và cuối cùng là trượt dọc theo bề mặt không vuông góc với hướng của lực. Phải có một thành rõ ràng vuông góc với hướng của lực để đủ hạn chế sự di lệch tự do và mang lại khả năng kháng lực phù hợp (Hình 9-7b).
Hộp lưu giữ ở mặt bên cũng phải được thực hiện theo cách tương tự. Nếu thành má và thành lưỡi của nó tạo với thành tuỷ một góc chéo, sẽ không có đủ khả năng kháng lại các lực xoay (Hình 9-8a). Thành má và thành lưỡi phải cắt thành tuỷ với góc gần 90 độ nhờ đó các thành này sẽ song song với bất kỳ lực nào có xu hướng làm xoay phục hồi (Hình 9-8b). Sau đó hộp lưu được làm loe ra nhờ đó có thể tạo một rìa sắc bằng vàng tại cạnh xoang-bề mặt của phục hồi.
Hình 9-9 Cùi răng có các thành dài (a) sẽ kháng lại di lệch nghiêng của phục hồi tốt hơn cùi ngắn (b).
Hình 9-11 Khả năng kháng lực của một phục hồi ngắn (a) có thể cải thiện bằng cách thêm các rãnh lưu (b).
Chiều dài
Chiều dài lợi-mặt nhai là một yếu tố quan trọng cả với lưu giữ và kháng lực. Cùi càng dài thì có diện tích bề mặt càng lớn do đó càng lưu giữ. Do phần thành trục nằm về phía mặt nhai so với đường hoàn tất sẽ cản trở sự di lệch, chiều dài và độ nghiêng của thành này trở thành các yếu tố quyết định khả năng kháng lại lực làm nghiêng phục hồi.
Để phục hồi thành công, chiều dài cùi phải đủ lớn để cắt một cung tròn có tâm là một điểm nằm trên rìa phục hồi ở phía đối diện22 (Hình 9-9a). Thành ngắn hơn sẽ không đáp ứng được khả năng kháng lực cần thiết (Hình 9-9b). Thành càng ngắn thì độ nghiêng của nó càng quan trọng. Cùi càng ngắn thì các thành của cùi nên có độ thuôn ít hơn để tăng khả năng kháng lực. Tuy nhiên, việc này cũng không giúp gì được nếu các thành quá ngắn.
Có thể phục hồi thành công một răng với thành ngắn nếu răng có đường kính nhỏ. Mài cùi trên răng nhỏ thì cung di lệch sẽ có bán kính quay ngắn, và phần phía rìa cắn của thành trục sẽ kháng lại di lệch (Hình 9-10a). Bán kính quay lớn hơn trên cùi răng lớn hơn sẽ có cung di lệch thoải hơn, và thành trục sẽ không kháng lại được lực xoay (Hình 9-10b). Parker và cộng sự23 chỉ ra rằng khoảng 95% cùi răng trước được phân tích có hình thể kháng lực, trong khi chỉ 46% cùi răng hàm có hình thể này.
Khả năng kháng lại di lệch của một cùi răng thành ngắn trên một răng to có thể được cải thiện bằng cách mài các rãnh lưu trên thành trục. Việc này sẽ làm giảm bán kính quay, và phần thành của rãnh lưu gần mặt nhai của cùi sẽ cản trở sự di lệch (Hình 9-11).
Hình 9-12 Các thành phần bên trong của cùi như hộp lưu, rãnh lưu và lỗ cắm pin thường được thay thế cho nhau.
Các thành phần thay thế bên trong
Thành phần cơ bản tạo ra lưu giữ cho phục hồi gắn là hai thành trục đối diện nhau với độ thuôn tối thiểu. Không phải khi nào cũng có thể sử dụng hai thành đối diện nhau để lưu giữ: một thành có thể đã bị phá huỷ từ trước, hoặc một thành không được phục hồi che phủ ở chụp từng phần. Cũng có thể có cả hai thành nhưng có độ nghiêng quá lớn. Nói chung, các thành phần bên trong như rãnh lưu, hộp lưu và hố cắm pin có thể thay thế cho nhau và thay thế cho thành trục (Hình 9-12). Các thành phần thay thế này rất quan trọng bởi vì các điều kiện thường cản trở việc tạo ra một cùi răng lý tưởng.
Kent và cộng sự15 báo cáo sự khác biệt lớn giữa độ thuôn của các cùi chụp toàn phần (18.4 đến 22.2 độ) và độ thuôn của các hộp lưu và rãnh lưu nằm trên thành trục của các cùi này (7.3 độ). Độ thuôn của các cấu trúc bên trong này gần như bằng với độ thuôn của mũi khoan được sử dụng để mài ra chúng (4 đến 6 độ). Rõ ràng là các thành trục của cùi cách xa nhau thường bị nghiêng quá mức do hạn chế tiếp cận, quan sát, hoặc cả hai.
Tuy nhiên, khi mài một cấu trúc bên trong như rãnh lưu hay hộp lưu, khoảng cách ngắn hơn giữa các thành cho phép nha sĩ mài chúng chính xác hơn. Các cấu trúc này mang lại một phương tiện tuyệt vời để nâng cao khả năng lưu giữ và kháng lực tổng thể cho một thành trục quá nghiêng. Woolsey và Matich24 cho thấy rằng các rãnh lưu mặt bên trên các khuôn cùi răng ngắn, thuôn 15 độ giúp kháng lại hoàn toàn di lệch ngang má-lưỡi.
Hướng lắp
Hướng lắp là một đường tưởng tượng mà theo hướng đó phục hồi sẽ được lắp vào hoặc tháo ra khỏi cùi. Nó được xác định trong đầu nha sĩ trước khi bắt đầu mài cùi, và tất cả các thành phần của cùi được mài trùng với hướng đó. Không được tuỳ tiện lựa chọn hướng lắp sau khi đã hoàn thành mài cùi bằng cách thêm các thành phần như rãnh lưu. Hướng lắp đặc biệt quan trọng khi mài các răng làm trụ cho phục hình từng phần cố định bởi vì hướng lắp của tất cả các cùi răng trụ phải song song với nhau.
Cần áp dụng đúng kỹ thuật để đánh giá một cùi răng bằng bắt bởi vì đây là phương pháp chính để đảm bảo rằng cùi không bị lẹm và không quá thuôn. Nếu quan sát trung tâm mặt nhai của cùi răng bằng một mắt từ khoảng cách khoảng 30 cm (12 inch), có thể nhìn thấy toàn bộ các thành trục của cùi có độ thuôn tối thiểu (Hình 9-13). Tuy nhiên, cũng có thể nhìn thấy các thành trục của cùi có độ thuôn ngược (vùng lẹm) 8 độ khi mở cả hai mắt (Hình 9-14). Điều này xảy ra là vì có khoảng cách giữa hai mắt. Do đó, cần nhấn mạnh rằng chỉ quan sát cùi khi nhắm một mắt.
Khi quan sát cùi trong miệng, vốn hiếm khi có thể quan sát trực tiếp, cần dùng gương (Hình 9-15). Gương được giữ tại một góc phía trên cùi khoảng ½ inch, và hình ảnh trong gương được quan sát bằng một mắt. Khi đánh giá các cùi răng trụ của phục hình từng phần cố định xem có giống hướng lắp không, cần thiết lập một điểm tựa ngón tay chắc chắn, và điều chỉnh gương cho đến khi cùi thứ nhất nằm ở trung tâm gương. Sau đó, xoay trên điểm tựa ngón tay, di chuyển gương mà không làm thay đổi góc của nó, cho đến khi cùi thứ hai nằm ở trung tâm gương.
Hướng lắp phải được xem xét trong hai chiều
Má lưỡi và gần xa. Chiều má lưỡi của hướng lắp có thể ảnh hưởng đến tính thẩm mỹ của chụp sứ-kim loại hoặc veneer từng phần. Với chụp sứ-kim loại, hướng lắp xấp xỉ song song với trục dài của răng (Hình 9-16). Hướng lắp nghiêng về phía má với cùi của chụp sứ kim loại sẽ tạo ra góc nhai-ngoài quá nhô, dẫn đến hình thể của phục hồi phải lồi ra, nhìn xuyên vùng đục, hoặc cả hai.
Nghiêng hướng lắp về phía má sẽ gây ra mài quá nhiều góc nhai-ngoài-gần của cùi chụp ba phần tư, dẫn đến lộ vàng không cần thiết. Với chụp ba phần tư trên răng trước, hướng lắp nên song song với một phần hai cho đến hai phần ba phía cắn của mặt ngoài răng (Hình 9-17). Nếu hướng lắp nghiêng nhiều hơn về phía môi, kết quả là sẽ tạo ra các rãnh lưu ngắn và lộ vàng không cần thiết.
Chiều gần-xa của hướng lắp phải song song với các diện tiếp xúc của các răng kế cận. Nếu hướng lắp nghiêng về phía gần hoặc phía xa, phục hồi sẽ bị giữ lại tại diện tiếp xúc bên (bị khoá) (Hình 9-18). Đây là một vấn đề đặc biệt khi phục hồi một răng nghiêng trục. Trong trường hợp này, nếu chọn hướng lắp song song với trục dài của răng thì sẽ làm cho diện tiếp xúc của răng kế cận xâm phạm vào hướng lắp.
Hình 9-13 Để kiểm tra xem cùi răng có vùng lẹm không, nên nhắm một mắt lại.
Hình 9-14 Nếu mở cả hai mắt khi quan sát cùi răng, có thể không phát hiện ra vùng lẹm
Hình 9-15 Cùi răng trong miệng được quan sát qua gương bằng một mắt.
Hình 9-16 (a) Hướng lắp của cùi chụp sứ kim loại nên song song với trục dài của răng. (b) Nếu hướng lắp nghiêng về phía má, góc nhai-ngoài nhô ra có thể dẫn đến các vấn đề thẩm mỹ bao gồm phục hồi quá lồi hoặc nhìn xuyên vùng đục. (c) Tuy nhiên, nếu hướng lắp nghiêng về phía lưỡi, mặt ngoài của cùi sẽ cắt mặt lưỡi, làm cho cùi răng ngắn đi. Việc này còn có thể làm xâm phạm đến tuỷ.
Hình 9-17 Hướng lắp của chụp ba phần tư trên răng sau song song với trục dài của răng (a), trong khi trên răng trước, hướng lắp song song với một phần hai tới hai phần ba cắn của mặt ngoài răng (b).
Hình 9-18 Hướng lắp của cùi phải song song với các diện tiếp xúc bên kế cận (a) nếu không sẽ không lắp được phục hình (b).
Hình 9-19 Mài thấp mặt nhai không đủ thì sẽ không mang lại đủ khoảng cần thiết để làm phục hồi đúc đủ độ dày.
Hình 9-20 Mài thấp mặt nhai nên tái lập các mặt nghiêng cơ bản hơn là mài thành một mặt phẳng.
Nguồn: Tổng hợp internet
Bài đăng lần đầu ngày: 28 Tháng chín, 2019 @ 2:22 chiều