Năm 1986, Tiến sĩ Mirjana Vujaskovi và cố vấn của mình, Giáo sư Miroslav Pajic, thực hiện nghiên cứu rộng rãi trên lâm sàng về mức độ chính xác của phương pháp dùng cảm giác tay với sự kiểm soát của X-quang trong mối liên hệ với hai điểm tham chiếu: cách chóp 0.5 mm trên X-quang ở bệnh nhân dưới 25 tuổi và 1.0 mm ở bệnh nhân trên 25 tuổi.
Phương pháp này chỉ chính xác ở 19% trường hợp độ chính xác này tăng 42% nếu độ sai số lên 0,5mm.
Hơn thế nữa trên và dưới giá trị được ước tính là 4,5mm so với điểm tham chiếu, Ivan trình bày độ chính xác từ 30 đến 40% và từ 30 đến 60% với các giá trị đo rộng và ngẫu nhiên.
Gợi ý: RADIO 4 DENTAL SỐ 8.3 – QUYẾT ĐỊNH CHIỀU DÀI LÀM VIỆC VÀ CÁCH XÁC ĐỊNH ĐIỂM CHÓP CUỐI CÙNG (PHẦN 1)
Một phát hiện quan trọng với việc làm hàng ngày.
Việc làm loe chóp tăng độ chính xác lên tới 32% đến 75% kỹ thuật côn giấy được coi là phương pháp xác định chiều dài chính xác nhất chiều dài làm việc đến điểm cuối cùng của ống tủy và các lỗ chóp nhỏ có đường kính 3 chiều không gian, cho các nhà lâm sàng thấy được điểm thắt chóp lên đến 1/4mm.
Theo logic:
Phương pháp này dùng cho kỹ thuật chóp mở, ngoài ra kỹ thuật này cho phép điều chỉnh côn gutta theo ba đường không gian, dựa trên thông tin thu được trên các điểm giấy.
Mặc dù chúng ta xác định chính xác chiều dài làm việc, nhưng không có bằng chứng khoa học nào hay lâm sàng nào có giá trị trong y văn, mặc dù được ủng hộ bởi nhiều chuyên gia nội nha.
Tuy nhiên, là một phương pháp khá đơn giản và có thể hữu ích trong việc xác định chiều dài làm việc và không làm tổn thương quanh chóp và ảnh hưởng đến vùng mô quanh chóp
Phương pháp dùng X-quang(RM)
Có lẽ vẫn còn phổ biến để xác định chiều dài làm việc, cho phép những chi tiết quan trọng trong mọi thủ thuật nội nha, tuy nhiên nó cũng có những hạn chế đôi khi cho hình ảnh ảo.
Có 3 vấn đề cần lưu ý:
Bắt buộc phải có 1 phim trước điều trị, phim này chuẩn đoán chính xác.
Cho rằng chụp x-quang và trong răng giải phẫu lúc nào cũng trùng nha, nhưng hầu hết các sách giáo hoặc bài báo sử dụng thuật ngữ này thay thế cho nhau.
Các lỗ chóp không phải lúc nào cũng thấy được hình chụp X-quang và đây là 1 điều khó chấp nhận được.
Khi trên X-quang dụng cụ còn cách chóp nhưng thực tế nó đã quá lỗ chóp trong 43% trường hợp, nếu điểm thắt chóp cách chóp răng 0,5mm thì 66% tất cả các dụng cụ đã đi quá nó, khi file trên x-quang thì sự thật nó gần với lỗ chóp hơn so với hình ảnh hiển thị trên x-quang.
Chiều dài làm việc trên x-quang và chấm dứt cắt chóp trên x-quang từ 0 – 2mm nên dụng cụ đi quá chóp mà chúng ta không hay biết và điều này xảy ra thường xuyên hơn mong đợi.
RM phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau cấu trúc xung quanh, góc của ống chụp phim, khả năng chịu chiều dài của file, kích thước file, tốc độ rửa kim và sàng ảnh,.
Tóm lại:
Không thể thiếu x-quang trong khi tính toán, không thể dùng x-quang đo chiều dài làm việc và điểm chóp cuối cùng trong nội nha.
Ưu điểm nổi bật nhất của phim x-quang kỹ thuật số:
Khả năng định lượng khoảng cách nhờ các chương trình phần mềm, hình ảnh có thể thay đổi kích thước và độ tương phản.
Hạn chế:
Dùng cây file số 8 hoặc 10 chúng hiển thị sự tương phải thấp cấu trúc xung quanh, ảnh hưởng chính xác đến việc đo chiều dài và cho kết qủa, do đó khuyên dùng file số 15 và to hơn nữa.
s
Biên dịch: Lương Thị Quỳnh Tâm
Chịu trách nhiệm bởi: Công ty ANH & EM
Bài đăng lần đầu ngày: 27 Tháng tư, 2020 @ 2:12 chiều