A- GIỚI THIỆU
Phim Cephalometric là một phương pháp tiêu chuẩn để tái tạo lại hình ảnh sọ mặt, rất hữu ích trong việc đo đạt sọ và phức hợp vùng mặt. Vì vậy hình ảnh phim thu được gọi là cephalogram.
Phim cephalometric xuất phát ban đầu từ việc đo sọ não. Trong nhiều năm, các chuyên gia giải phẫu học và các nhà nhân chủng học chỉ giới hạn trong phạm vi đo kích thước sọ mặt của những người đã chết. Điều này không thể làm được ở những cơ thể sống vì độ dày mô mềm khác nhau làm cho việc đo đạt không được chính xác. Với sự xuất hiện của phim X quang, phương pháp thay thế này đã giúp các nhà nghiên cứu đạt được sự đo đạt chính xác một cách gián tiếp, và giúp việc đo đạt xương người trở nên thuận tiện hơn. Khả năng chụp lại các phim X quang cũng cho phép những nghiên cứu tăng trưởng trong một thời gian dài ở trên các cơ thể sống.
Phim cephalometric có thể hữu ích trong việc chẩn đoán và là công cụ đánh giá cho các bác sĩ nha nhi khoa, phục hình, phẫu thuật miệng cũng như các nha sĩ tổng quát. Tuy nhiên, nó chủ yếu phục vụ trong chỉnh nha và vẫn còn là một bí ẩn đối với những bác sĩ ở những lĩnh vực nha khoa khác. Chương này sẽ tình bày những nguyên tắc cơ bản của phim Cephalometric và tóm tắt các phân tích phim thường dùng.
B- LỊCH SỬ PHIM CEPHALOMETRIC
Vào thế kỷ 16, các hoạ sĩ Durer và DaVinci đã phát hoạ một loạt khuôn mặt người với những đường nét nối nhau tương đồng với cấu trúc giải phẫu. Sự khác biệt giữa các đường nét này làm nổi bật lên những sự khác biệt về mặt cấu trúc giữa các khuôn mặt. Các hoạ sĩ cố gắng vẽ đúng tỉ lệ cơ bản với vẻ đẹp và sự hài hoà như những nguyên tắc hướng dẫn nhằm định lượng cấu trúc cơ bản trên mặt người.
Nhiều năm sau đó, các nhà nhân chủng học đã phát mình ra một dụng cụ – gọi là craniostat giúp định hướng và thực hiện các phép đo chuẩn trên sọ khô. Điều này cải thiện nghệ thuật so sánh do dụng cụ giúp việc đo đạt tốt hơn. Nhưng điều này không cho phép thực hiện nghiên cứu trên cơ thể sống. Việc phát mình ra X quang vào năm 1895 nhờ William Conrad Roentgen đã mở ra một giai đoạn mới với hướng nghiên cứu trên người thật.
Bài báo đầu tiên viết về những gì chúng ta ngày hôm nay gọi là cephalometric là của tác giả Pacini vào năm 1922. Ông trình bày khái niệm về tiêu chuẩn hình ảnh X quang vùng đầu.
Vào năm 1931, Hofrath ở Đức và Broadbent ở Mỹ đồng thời xuất bản những bài báo trong đó họ đã chọn lọc lại kỹ thuật và ứng dụng nguyên tắc này trong chỉnh nha. Trong khoảng thời gian này, hệ thống tĩnh học về hàm răng của Simon – một phương pháp định hướng mẫu hàm chỉnh nha theo mặt phẳng ngang Frankfort được đưa vào sử dụng. Những ý tưởng này xuất phát một cách tự nhiên từ nhân trắc học và tĩnh học về hàm răng, hợp nhất với kỹ thuật mới và phát triển như là khoa học của X quang Cephalometric.
C- ỨNG DỤNG CỦA PHIM CEPHALOMETRIC
Nghiên cứu sự phát triển của sọ mặt: thông qua việc nghiên cứu một loạt các hình chụp cephalogram chúng ta sẽ có những thông tin liên quan đến:
- Những mô hình tăng trưởng khác nhau
- Hình thành các tiêu chuẩn và so sánh với cách tiêu chuẩn khác của cephalogram
- Dự đoán sự tăng trưởng trong tương lai
- Dự đoán kết quả của một kế hoạch điều trị cụ thể
- Chẩn đoán những bất thường vùng sọ mặt: cephalogram giúp nhận biết, xác định và định hướng bản chất của vấn đề, kết quả quan trọng nhất là sự khác biệt trong tương quan xương và răng.
- Lập kế hoạch điều trị: Nhờ vào việc hỗ trợ quá trình chẩn đoán và dự đoán hình thái của phức hợp sọ mặt và sự tăng trưởng trong tương lai mà phim cephalometric giúp phát triển kế hoạch điều trị rõ ràng. Ngay cả trước khi bắt đầu điều trị chỉnh nha, một bác sĩ chỉnh nha có thể dự đoán được vị trí cuối cùng của các răng trong xương để đạt được sự thẩm mỹ và kết quả ổn định. Nó giúp phân biệt những trường hợp có thể điều trị bằng các khí cụ thay đổi sự tăng trưởng hay cần điều trị phẫu thuật trong tương lai.
- Đánh giá những ca đã điều trị: một loạt cephalogram cho phép bác sĩ chình nha ước lượng và đánh giá tiến trình của điều trị cũng như giúp hướng dẫn những thay đổi theo mong muốn.
- Nghiên cứu sự tái phát trong chỉnh nha cũng giúp nhận diện nguyên nhân tái phát và sự ổn định của việc điều trị sai khớp cắn. Nó giúp xác định vị trí mỗi răng trong xương hàm trên hoặc hàm dưới, qua đó xem xét sự ổn định tương đối này.
Theo quy ước, khoảng cách từ nguồn tia X đến vật thể trên mặt phẳng đứng dọc là 5 bước. Khoảng cách từ mặt phẳng dọc giữa đến cassette có thể khác nhau tuỳ vào máy nhưng phải luôn giống nhau cho từng bệnh nhân.
D- CHỤP CEPHALOGRAM
- Thiết bị chụp phim Cephalometric
Bộ bộ thiết bị chụp phim cephalometric bao gồm bộ phận giữ đầu, nguồn tia X và bộ phận giữ cassette. Bộ phận giữ đầu có hai loại.
a. Phương pháp của Broadbent-Bolton sử dụng hai nguồn tia và hai bộ phận giữ phim, vật thể được chụp sẽ không di chuyển giữa hai lần chụp phim nghiêng và phim thẳng. Điều này giúp việc nguyên cứu theo ba chiều không gian chính xác hơn và tránh việc chụp phim bị lệch góc.
b. Phương pháp Higley sử dụng bộ phận giữ đầu hiện đại với một nguồn tia X và một cây giữ phim trong đó bộ phận giữ đầu có thể xoay được. Bệnh nhân sẽ thay đổi vị trí nếu như muốn chụp theo nhiều hướng khác nhau.
2. Chụp phim mặt bên
Mặt phẳng đứng dọc giữa của đầu theo quy ước được đặt cách tiêu điểm của ống chụp phim 60 inches về phía bên trái (quy ước của châu Âu là phía bên phải) vật thể so với phim. Tia X trung tâm trùng với trục transmeatal (chẳng hạn như thanh giữ tai của cephalostat). Trong hầu hết trường hợp, khoảng cách từ mặt phẳng dọc giữa đến phim được giữ hằng định, thường là 7 inches (18cm). Khoảng cách này có thể khác nhau tuỳ thuộc vào máy, nhưng được giữ giống nhau trên mỗi bệnh nhân ở mỗi lần chụp phim. Theo phương pháp chụp của Brodbent-Bolton thì khoảng cách này khác nhau tuỳ thuộc vào vật thể chụp. Đầu của bệnh nhân được đặt sao cho mặt phẳng Frankfort song song với sàn nhà và răng nằm ở vị trí cắn khớp bình thường và thả lỏng môi.
Chụp theo chiều trước sau
Đầu được quay 90 độ sao cho tia trung tâm vuông góc với trục transmeatal (thanh giữ tai của cephalostat). Điều quan trọng là mặt phẳng Frankfort phải chính xác nằm ngang vì nếu đầu bị nghiêng thì tất cả các số đo theo chiều dọc đều thay đổi.
Chụp nghiêng
Phim cephalogram bên phải và trái được chụp một góc 45 độ so với mặt bên, tia trung tâm sẽ đi vào phía sau cành đứng xương hàm dưới để tránh chồng với cấu trúc nửa bên kia của xương hàm dưới. Mặt phẳng Frankfort phải nằm ngang; nếu nó bị nghiêng sẽ làm thay đổi các số đo. Phim cephalogram nghiêng đặc biệt hữu ích với những bệnh nhân có bộ răng hỗn hợp nhưng hiếm khi đươc các bác sĩ chỉ định.
Bài đăng lần đầu ngày: 16 Tháng mười một, 2017 @ 2:12 chiều