VTO nha khoa: phân tích sự di chuyển răng trong chỉnh nha (Phần 1)

Hầu hết các kiểu phân tích trên phim Cephalometric biểu đạt mối tương quan giữa xương hàm trên và xương hàm dưới theo mặt phẳng dọc và ngang cùng với vị trí và góc độ của các răng cửa. Tuy nhiên rất ít các phân tích chỉnh nha cung cấp thông tin về hướng và khoảng di chuyển mà răng cần thực hiện trong suốt quá trình điều trị. Ví dụ như Phân tích Steiner chẳng hạn, bao gồm vị trí ban đầu và việc di chuyển của răng cối lớn thứ nhất, răng nanh và đường giữa theo mong muốn, nhưng lại khá mơ hồ về sự sửa chữa khớp cắn hạng II và di chuyển răng như thế nào sau khi nhổ răng. Thiếu các thông tin này, các bác sĩ chỉnh nha có thể mất đi thị giác về neo chặn cần thiết của một trường hợp và vì vậy không ước tính được thời gian bệnh nhân cần hợp tác để đạt được mục tiêu điều trị. Phân tích nha khoa được trình bày dưới đây gọi là Cụ thể hóa mục tiêu điều trị, được thiết kế nhằm cung cấp các thông tin một cách hệ thống, đơn giản giúp ích trong quá trình chẩn đoán, lên kế hoạch điều trị và quyết định có nhổ răng hay không. Nó nên được dùng như là một công cụ hỗ trợ, chứ không phải là một công cụ thay thế cho các phân tích phim Cephalometric truyền thống. Cần giành một ít thời gian để hoàn thành và chiếm một phần nhỏ trong bảng điều trị. Tiến độ có thể được kiểm tra bằng cách tham khảo các VTO nha khoa tại các cuộc hẹn điều chỉnh thường xuyên của bệnh nhân.
Phương pháp
VTO nha khoa bao gồm 3 bảng xếp hạng:
Bảng 1 ghi lại vị trí đường giữa và răng cối lớn thứ nhất khi hàm dưới ở khớp cắn trung tâm.
Bảng 2 đo sự thay đổi ở cung răng dưới, tương tự như phân tích Steiner. Bốn nhân tố sơ phát cần biết trong mỗi trường hợp là:
Khoảng cần để giải quyết tình trạng chen chúc, được đo từ răng nanh đến đường giữa và từ răng cối lớn thứ nhất đến đường giữa mỗi bên.Khoảng cần để sửa chữa được tình trạng nhô hay lùi của các răng cửa hàm dưới như mong muốn.Khoảng cần để làm phẳng đường cong Spee, được tính từ điểm sâu nhất trên đường nối từ múi xa răng cối lớn thứ hai đến rìa cắn của răng cửa giữa mỗi bên; điểm này thường nằm ở vùng răng cối nhỏ (Hình 1).Khoảng cần để sửa chữa đường giữa.

, Công ty Anh & Em | J. Morita Việt Nam

Hình 1. Đường cong Spee được đo từ điểm sâu nhất trên đường nối từ múi xa răng cối lớn thứ hai đến cạnh cắn của răng cửa giữa mỗi bên.
Bốn nhân tố thứ phát là những phương pháp có thể tạo khoảng được liệt kê bên dưới bảng sơ phát:
Khoảng tạo ra nhờ mài kẽKhoảng tạo ra nhờ dựng trục hoặc di xa răng cối lớn thứ nhất hàm dướiKhoảng tạo ra nhờ dựng trục các răng nanh hoặc răng sau hàm dưới nghiêng ra ngoàiKhoảng Leeway hoặc khoảng E
Theo Moorrees, khoảng Leeway tạo thành do sự khác biệt kích thước giữa răng nanh, răng cối thứ nhất và thứ hai sữa và răng nanh, răng cối nhỏ thứ nhất và thứ hai vĩnh viễn, trung bình là 1.5mm mỗi bên ở cung hàm dưới và 0.9mm mỗi bên ở cung răng trên. Khoảng “E” được tạo ra do sự khác biệt về kích thước giữa răng cối sữa thứ hai và răng cối nhỏ vĩnh viễn thứ hai, trung bình là 2.5mm mỗi bên ở cung răng dưới và 2.3mm mỗi bên với cung răng trên (Hình 2).

, Công ty Anh & Em | J. Morita Việt Nam

Hình 2. Khoảng “E” trung bình là 2.5mm ở hàm dưới và 2.3mm ở hàm trên.
Những nhân tố sơ phát và thứ phát được kết hợp cùng nhau ở bảng cuối để quyết định toàn bộ sự thay đổi của cung răng dưới từ răng nanh đến đường giữa và từ răng cối lớn thứ nhất đến đường giữa mỗi bên.
Bảng 3 ghi lại dự đoán về sự di chuyển răng cối lớn thứ nhất, răng nanh, và đường giữa.

, Công ty Anh & Em | J. Morita Việt Nam

—-
Nguồn: RICHARD P. McLAUGHLIN, DDS; JOHN C. BENNETT, LDS, DOrth
Biên dịch: Lương Thị Quỳnh Tâm

Bài đăng lần đầu ngày: 4 Tháng Một, 2019 @ 2:53 chiều

Viết một bình luận

Contact Me on Zalo

RELAX. ENJOY.

Nộp CV của bạn

Đăng ký sửa tay khoan miễn phí