Để chẩn đoán và lên kế hoạch điều trị, một yêu cầu cơ bản là các nhà lâm sàng cần phải nắm các kiến thức về hình thái giải phẫu hệ thống ống tủy nói chung, và các biến thể thường gặp của chúng nói riêng.
Từ nghiên cứu của Hess và Zurcher
Những nghiên cứu gần đây đã chỉ ra sự phức tạp về mặt giải phẫu của hệ thống ống tủy. Nghiên cứu cho thấy một chân răng với một ống tủy thuôn và một lỗ chóp là một điều ngoại lệ so với thông thường.
Các nhà nghiên cứu chỉ ra nhiều lỗ chóp
Nhiều ống tủy, chóp răng deltas, sự thông nối giữa các ống tủy, các điểm thắt lại trong ống tủy, ống tủy hình chữ C, và các ống tủy vùng chẽ, ống tủy bên hiện diện ở hầu hết các răng. Do đó, trong điều trị nội nha, các bác sĩ lâm sàng cần phải xem giải phẫu hệ thống ống tủy phức tạp là bình thường.
Các răng cối nhỏ (hình 7-9) là một ví dụ hay về giải phẫu hệ thống ống tủy phức tạp. Chân răng phụ không thấy rõ trên các phim X-quang trước điều trị (xem hình 7-9 B). Hình 7-10 cho thấy mặt cắt ngang ở một chân răng tương tự.
Răng này có hệ thống ống tủy nhỏ, hình dải ruy băng thay vì có hai ống tủy riêng biệt. Cả hai răng này đều là thách thức cho các nhà lâm sàng trong việc tạo hình, làm sạch và trám bít ống tủy.
Hình 7-9. A, Răng cối nhỏ thứ nhất hàm dưới với ba chân răng riêng biệt chia ba tại vị trí giữa chân răng. B, Hình ảnh X-quang dưới ba góc nhìn khác nhau. Các ống tủy nhỏ phân kỳ từ ống tủy chính tạo nên cấu hình ống tủy rất khó để sửa soạn và trám bít cơ sinh học.
Hình 7-10. Hình ảnh cắt ngang chân răng ở răng cối nhỏ cho thấy hệ thống ống tủy có dạng hình dải ruy băng.
Hệ thống ống tủy được Weine chia làm bốn loại cơ bản.
Các nhà lâm sàng cần phải làm quen với các đường đi khác nhau của ống tủy đến chóp răng. Hệ thống ống tủy rất phức tạp, và các ống tủy có thể phân nhánh, chia ra và nối lại.
Các nhà nghiên cứu khác sử dụng các răng đã được làm sạch,
Trong đó hệ thống ống tủy được nhuộm bằng hematoxylin, họ nhận thấy rằng hệ thống ống tủy phức tạp hơn nhiều; người ta đã xác định được tám loại hình thể của ống tủy như sau (hình 7 – 11):
Loại 1: Một ống tủy đi từ buồng tủy tới chóp răng (1).
Loại 2: Hai ống tủy riêng biệt đi từ buồng tủy và hợp lại ở chóp răng rồi đổ ra tại một lỗ chóp (2-1).
Loại 3: Một ống tủy đi từ buồng tủy và chia đôi ở chân răng; hai ống tủy này sau đó hợp nhất lại tạo thành một ống tủy (1-2-1).
Loại 4: Hai ống tủy riêng biệt đi từ buồng tủy tới chóp răng (2).
Loại 5: Một ống tủy đi từ buồng tủy và chia ra làm hai ống tủy ở gần chóp, hai ống tủy này đổ ra hai lỗ chóp khác nhau (1-2).
Loại 6: Hai ống tủy riêng biệt đi từ buồng tủy và hợp lại với nhau ở giữa chân răng, sau đó chúng lại chia làm hai ống tủy riêng biệt ở vùng gần chóp răng (2-1-2).
Loại 7: Một ống tủy đi từ buồng tủy, tách ra thành hai ống tủy và rồi hợp lại ở vùng giữa chân răng, cuối cùng lại tách ra làm hai ống tủy riêng biệt ở vùng gần chóp răng (1-2-1-2).
Loại 8: Ba ống tủy riêng biệt đi từ buồng tủy đến chóp răng (3).
Hình 7 – 11. Biểu đồ mô tả các dạng hình thể ống tủy của Vertucci.
Tỉ lệ phần trăm các răng vĩnh viễn
Với những hình thể nói trên được mô tả trong bảng 7 – 3 và 7 – 4. Các biến thể giải phẫu của các răng được liệt kê trong bảng 7 – 1 và 7 – 2. Răng duy nhất có thể biểu hiện cả tám dạng hình thể nói trên là răng cối nhỏ thứ hai hàm trên.
Các nghiên cứu khác thực hiện trên 1000 răng cũng có những kết quả về hình thái răng tương tự. Nghiên cứu khác sử dụng hơn 1000 răng và mô tả kết quả hình thái tương tự. Tuy nhiên một điều ngoại lệ là một ống tủy được tìm thấy ở 23% răng cửa bên hàm trên, 55% ở chân ngoài gần răng cối lớn thứ hai hàm trên và 30% ở chân xa của răng cối lớn thứ hai hàm dưới.
Sự khác biệt
Sự khác nhau của nhóm dân số trong hai nghiên cứu. Một nhóm khác nghiên cứu ở 100 răng trước hàm dưới và tìm thấy thêm hai loại ống tủy mới.
Loại thứ nhất, hai ống tủy đi ra từ buồng tủy đến giữa chân răng, tại đây ống tủy trong phân làm hai; cả ba ống tủy này nối lại với nhau tại 1/3 chóp chân răng và đổ ra cùng chung một lỗ (hình 7-12, A).
Loại thứ hai, một ống tủy đi ra từ buồng tủy, chia làm hai ở 1/3 giữa chân răng, sau đó nối lại với nhau để tạo nên một ống tủy, rồi lại chia ra thành các ống tủy khác nhau và đổ ra ba lỗ chóp riêng biệt (hình 7-12, B).
Một nhóm các biến thể khác được Burmese quan sát thấy đầu tiên ở các răng cối lớn hàm dưới; nghiên cứu này cho thấy thêm bảy loại biến thể (hình 7-13).
Các biến thể này bao gồm ba ống tủy
Nối lại thành một hoặc hai ống tủy; hai ống tủy tách ra thành ba ống tủy; hai ống tủy nối vào, rồi chia ra thành hai ống tủy và sau đó đổ ra cùng một lỗ chóp; bốn ống tủy nối lại thành hai ống tủy; bốn ống tủy đi từ miệng ống tủy cho đến chóp răng; và năm ống tủy nối thành bốn ống tủy.
Ở một nghiên cứu khác về hình thể ống tủy trên 2800 răng có phân biệt giới tính cụ thể, kết quả cho thấy 99% mẫu giống như phân loại của Vertucci. Có 1% mẫu còn lại (36 răng) đại diện cho 14 kiểu hình thể bổ xung khác, các biến thể bổ sung này xảy ra nhiều gấp đôi ở các răng hàm dưới.
Các tác giả kết luận rằng giới tính có vài trò quyết định hình thái của hệ thống ống tủy và trước khi điều trị nội nha nên đánh giá giới tính lẫn nguồn gốc dân tộc của bệnh nhân.
Biên dịch: Bác sĩ Lương Thị Quỳnh Tâm
Gợi ý: Giải phẫu ống tủy (Phần 2)
Bài đăng lần đầu ngày: 24 Tháng mười một, 2017 @ 2:05 chiều